Bán nhà thuộc sở hữu chung và thừa kế theo pháp luật

 
 
Bán nhà thuộc sở hữu chung và thừa kế theo pháp luật
 
 

Bố mẹ tôi có 8 người con, trong đó 2 người con trai định cư, nhập quốc tịch nước ngoài từ trước năm 1954 và một người con gái (đã mất từ lâu) hiện có chồng và 3 con cũng định cư, nhập quốc tịch nước ngoài. Nhà nước thu ngôi nhà của bố mẹ tôi sống trước năm 1955 và chuyển đổi chúng tôi đến ngôi nhà hiện đang ở (thuộc sở hữu Nhà nước) không phải trả tiền nhà. Sau khi bố mẹ tôi mất (mẹ không để lại di chúc, bố viết di chúc cho 2 người con đang sống ở Hà Nội toàn bộ phần của bố tôi trong ngôi nhà đang ở). Mới đây, UBND TP Hà Nội đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà này, đứng tên 5 người con đang ở đây.


Xin hỏi:
2 người anh và anh rể, 3 cháu quốc tịch nước ngoài có quyền thừa kế ngôi nhà 5 gia đình chúng tôi đang ở không? 5 anh chị em chúng tôi muốn bán nhà hiện đang ở chung có phải cần đến sự đồng ý của 6 người này? Họ hàng ở nước ngoài cho biết, 2 người anh trai đã tuyên bố họ: “Không muốn dây dưa gì với gia đình ở Việt Nam, kể cả tài sản thừa kế”. Vậy, gia đình tôi phải làm thủ tục thế nào để lấy được “chứng nhận từ chối thừa kế” của 2 người này bằng văn bản có giá trị pháp lý? Có phải sau khi chúng tôi bán nhà, Nhà nước sẽ quản lý toàn bộ phần tiền thừa kế của 6 người định cư ở nước ngoài và chỉ trả lại cho họ khi về VN định cư? Mới đây, ngoài việc cho 5 chúng tôi sở hữu nhà đang ở, UBND TP còn bồi thường thêm một căn nhà nhỏ nữa. Căn nhà nhỏ này nằm ngoài dự kiến và cũng không có trong di chúc của bố chúng tôi. 5 người chúng tôi cũng muốn bán nốt căn nhà “phát sinh” này thì có phải xin phép 6 người ở nước ngoài không?  Nguyễn Văn X. (TP Hà Nội)

I. Nhà nước thu nhà, xác lập sở hữu Nhà nước đối với ngôi nhà mà trước đó bố mẹ ông là chủ sở hữu; sau đó, đổi cho gia đình ông 1 nhà khác (hiện đã xác lập quyền sở hữu nhà này cho 5 người con của bố mẹ ông) đồng thời bồi thường thêm một “căn nhà nhỏ” nữa. Theo quy định tại Điều 675 Bộ Luật Dân sự, bà mẹ không có di chúc nên việc thừa kế phần di sản của bà được thực hiện theo quy định của pháp luật (điểm a, khoản 1). Ông bố không có di chúc đối với “căn nhà nhỏ” được Nhà nước bồi thường thêm, nên việc thừa kế phần di sản của ông (bất động sản này) cũng được thực hiện theo quy định của pháp luật (điểm a, khoản 2: Phần di sản không được định đoạt trong di chúc).
II. Căn cứ Điều 676 Bộ Luật Dân sự: 2 người anh và anh rể, 3 cháu quốc tịch nước ngoài của ông đều là những người thừa kế theo pháp luật.

III. Điều 112 Luật Nhà ở quy định: “Trường hợp có người thừa kế không phải là chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất thì người thừa kế được thanh toán phần giá trị nhà ở mà họ được thừa kế”. Như vậy, pháp luật buộc chủ sở hữu (5 anh em ông) thanh toán phần giá trị nhà ở mà những người thừa kế được hưởng nhưng không quy định Nhà nước quản lý phần tiền của những người thừa kế đang định cư ở nước ngoài khi nhà được bán. Căn cứ quy định tại Điều 96 Luật Nhà ở thì việc bán nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất do các chủ sở hữu quyết định không phụ thuộc vào việc những người thừa kế theo pháp luật có đồng ý hay không đồng ý.

IV. 6 cá nhân định cư ở nước ngoài là những người thừa kế theo pháp luật chứ không phải là chủ sở hữu căn nhà “phát sinh” nên việc bán nhà này cũng do những người chủ sở hữu ở trong nước quyết định không phải “xin phép 6 người ở nước ngoài”.

V. Khoản 1 Điều 633 Bộ Luật Dân sự quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Khoản 3 Điều 642 quy định: “Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”./.